Nuôi kết hợp tôm thẻ – cá hồng mỹ – cá rô phi trong hệ thống Biofloc

-

Nuôi tôm bằng BFT đạt được kết quả xuất sắc về cải thiện chất lượng nước, dẫn đến năng suất cao hơn. Cá rô phi là loài cá ăn tạp và được nuôi hiệu quả trong hệ thống BFT. Mặc dù cá hồng Mỹ thường được đánh bắt trong tự nhiên, nhưng có thể được sản xuất trong các hệ thống nuôi thương phẩm. Do đó, nghiên cứu này đánh giá sản lượng của hai loài có giá trị thương mại cao, cá rô phi là loài tiêu thụ chất rắn lơ lửng (TSS) trong một hệ thống biofloc tích hợp.

Thí nghiệm được tiến hành trong 4 hệ thống, mỗi hệ thống gồm 4 bể, trong đó có bể lắng (setting tank). Hai hệ thống chứa cá rô phi để xử lý sinh học (BT) các chất rắn lơ lửng, còn lại hai hệ thống không chứa cá rô phi (đối chứng).

Cải thiện thông số chất lượng nước

Nhiệt độ, oxy hòa tan, pH và độ mặn được duy trì ở mức tối ưu cho cả tôm và cá. Sau tuần thứ hai của thí nghiệm, nồng độ TSS giảm cho đến tuần thứ tư ở cả hai nghiệm thức. Sự sụt giảm này có thể liên quan đến khả năng tiêu thụ biofloc của tôm, cá rô phi và việc giải quyết chất rắn trong bể lắng chuyên dụng.

Yuan và cộng sự. phát hiện việc tích hợp cá rô phi và tôm dẫn đến nồng độ TSS thấp hơn so với trong hệ thống chỉ nuôi tôm. Avnimelech (2007) quan sát thấy khi thả nuôi trong sáu ngày, cá rô phi tiêu thụ bioflocs làm nguồn thức ăn duy nhất, dẫn đến giảm TSS. Trong thí nghiệm này, TSS thấp vào cuối giai đoạn thử nghiệm ở tất cả các hệ thống, có thể là kết quả của ba yếu tố: (a) thiết bị lọc được bật hai giờ mỗi tuần trong 2 tuần đầu tiên; (b) cá rô phi trong nghiệm thức BT giảm TSS xuống mức thấp và (c) bể không có cá rô phi trong đối chứng có chức năng như một buồng lắng. Nồng độ của chất rắn lơ lửng cuối thí nghiệm cho thấy các bể không có cá rô phi hoạt động như các buồng lắng. Ngay cả với tổng sinh khối cá cao hơn khi bổ sung cá rô phi ở nghiệm thức BT, nồng độ TSS vẫn giữ nguyên như ở nghiệm thức đối chứng trong suốt thí nghiệm. Điều này cho thấy bản thân cá rô phi có thể đang tiêu thụ chất rắn dư thừa do sự hiện diện của chúng trong một hệ thống tích hợp đa loài.

Hệ thống được bao gồm bể tôm thẻ (bể 22 m3 và 250 con/m3), cá rô phi (bể 1,5 m3 và 60 con/ m3) và cá hồng mỹ (6,7 m3 và 14 con/m3). Nghiệm thức đối chứng, không có cá rô phi trong bể nuôi.

Sự tích tụ nitơ và phốt pho trong hệ thống nuôi có thể thay đổi tùy thuộc vào lượng bài tiết hoặc đồng hóa của từng loài. Cá rô phi hấp thụ nhiều P hơn N, trong khi tôm đồng hóa nhiều N hơn P. Nồng độ các hợp chất nitơ trong thí nghiệm này tương tự như những gì thường thấy trong hệ thống BFT, với nồng độ amoniac cao ở hai tuần đầu tiên, tiếp theo là nitrit giữa tuần thứ tư và thứ sáu, bắt đầu tích lũy nitrat vào cuối chu kỳ. Muangkeow và cộng sự. (2007) cho thấy nồng độ amoniac và nitrit cao hơn trong bể chỉ thả tôm so với bể nuôi tích hợp tôm-cá rô phi. Về sự tích lũy nitrit, phát hiện đó trái ngược với kết quả trong thí nghiệm này, vì mức nitrit vào cuối thí nghiệm trong hệ thống BT cao hơn so với đối chứng.

Trong hệ thống BT, amoniac được tạo ra bởi cá rô phi cùng với tôm và cá hồng mỹ có thể làm tăng nồng độ amoniac trong tuần đầu tiên. Quá trình nitrat hóa có liên quan đến cộng đồng vi khuẩn trong biofloc. Cá rô phi ở mật độ cao có thể làm thay đổi cấu trúc biofloc và giảm sự hiện diện của vi khuẩn oxy hóa nitrit. Điều này có thể giải thích cho sự khác biệt về mức nitrit giữa BT và các nghiệm thức đối chứng trong các tuần 6, 7 và 8. Mặc dù có sự khác biệt về amoniac, nhưng nồng độ vẫn được duy trì trong mức khuyến cáo cho tôm thẻ. Đối với cá rô phi, nồng độ amoniac và nitrit cũng dưới mức được báo cáo là có tác động tiêu cực đến tăng trưởng hoặc tỷ lệ sống.

Chất rắn được tích tụ trong bể nuôi cá rô phi (BT) so với không có bể nuôi cá rô phi (đối chứng) vào cuối thí nghiệm.

Tăng năng suất tăng trưởng

Nuôi cá rô phi trong hệ thống BT không làm ảnh hưởng đến các chỉ số hoạt động của tôm và cá hồng Mỹ. Điều này cho thấy có thể tích hợp sản xuất cá rô phi vào một hệ thống đa loài mà không làm giảm sản lượng của các loài có giá trị cao hơn. Điều này tránh được sự điều chỉnh mật độ nuôi giữa các loài. Trong nghiên cứu này, trọng lượng cuối cùng, WWG (tăng trọng hàng tuần), FCR, tỷ lệ sống và năng suất của tôm lần lượt là 12,39-12,66g, 1,33g/wk, 1,05-1,34, 72-94% và 2,06-2,79kg/m3. Luo et al. (2014) trong một thí nghiệm với cá rô phi trong hệ thống BFT đã báo cáo trọng lượng cuối cùng là 168,58g, FCR 1,20, tỷ lệ sống 100% và năng suất 36,95 kg/m3. Kết quả năng suất tăng trưởng của cá rô phi trong nghiên cứu này tốt hơn so với các nghiên cứu trước đó về trọng lượng cuối cùng 203,41, WWG 14,77g/tuần và tỷ lệ sống 100%. Ngoài ra, FCR thấp (0,85) làm nổi bật khả năng tiêu thụ biofloc tăng lên vì tỷ lệ cho cá rô phi ăn không được điều chỉnh trong suốt thí nghiệm và có thể dẫn đến mức tiêu thụ biofloc cao hơn. Năng suất cá rô phi có giá trị trung bình là 12,20 kg/m3 so với các nghiên cứu trước đây.

Trong 18 tháng nuôi thương phẩm trong ao lót 0,1 ha, Sandifer et al. (1993) đã chứng minh giá trị sản xuất cá hồng mỹ nằm trong khoảng từ 0,89-1,37 kg, 2,15-2,60, 55-95% và 7.251-24.083 kg, về trọng lượng cuối cùng, FCR, tỷ lệ sống và năng suất. Trong nghiên cứu này, sau 8 tuần trong hệ thống BFT tích hợp, trọng lượng cuối cùng, FCR, tỷ lệ sống sót và WWG lần lượt dao động từ 164-167g, 1,00, 98-99% và 12 g/tuần. Các chỉ số này chứng minh việc nuôi tôm, cá hồng mỹ và cá rô phi trong hệ thống tích hợp trong có thể so sánh với kết quả của các nghiên cứu khác ở các thí nghiệm nuôi đơn và đa loài.

Kết luận

Tôm thẻ chân trắng, cá hồng Mỹ và cá rô phi có thể được nuôi thành công trong một hệ thống tích hợp sử dụng BFT. Chất rắn lơ lửng có thể được kiểm soát hiệu quả thông qua việc tiêu thụ của cá rô phi tương đương với xử lý cơ học bằng bể lắng. Điều này không chỉ làm giảm lượng chất thải trong nuôi trồng thủy sản mà còn bổ sung thêm một loài cá vào hệ thống nuôi tích hợp. Các chỉ số tăng trưởng, đặc biệt là tốc độ tăng trưởng và FCR, đã khẳng định tầm quan trọng của biofloc như một loại thức ăn bổ sung cho tôm và cá rô phi, đồng thời cho thấy tiềm năng nuôi cá hồng mỹ trong hệ thống BFT.

Source: TepBac

Trieu Tuan
Trieu Tuan
Triệu Tuấn là một ông bố 2 con, tốt nghiệp Tiến sỹ chuyên ngành Công nghệ sinh học tại Nhật Bản. Hiện nay đang công tác tại Trung tâm Xúc tiến đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp tỉnh Cà Mau (iPEC).

Share this article

Recent posts

Popular categories

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Recent comments