Các nhóm vi khuẩn gây bệnh trên cá

-

Bài viết tổng hợp các nhóm vi khuẩn gây bệnh trên cá, bao gồm các nhóm vi khuẩn gây bệnh trên môi trường nước mặn và nước ngọt.

PHẦN I: Các nhóm vi khuẩn Vibrio được phân lập trong môi trường nước mặn

Các thành viên trong nhóm Vibrio là phẩy khuẩn Gram âm được phân lập từ môi trường nước mặn và  trong đường tiêu hóa của động vật biển. Bao gồm: Vibrio anguillarum, V. Salmonicida là những tác nhân gây bệnh (Vibriosis). Vibriosis là một bệnh nguy hiểm ảnh hưởng đến cả cá nuôi và cá ngoài tự nhiên, giáp xác và nhuyễn thể. Sự bùng phát bệnh thường xảy ra ở nhiệt độ trên 10oC.

Những vi khuẩn này được coi là một phần của hệ vi sinh vật  bản địa tồn tại lâu dài trong môi trường và trong cơ thể cá khỏe mạnh (Nayak 2010). Hiện nay, Vibrio anguillarum được tổng hợp gồm 23 nhóm (Pedersen và cộng sự, 1999). Chúng đã được chứng minh rằng hai nhóm huyết thanh O1 và O2 là tổng thể quan trọng nhất từ các mầm bệnh ở cá hồi Đại Tây Dương (Salmo salar L.), cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss) và Cá tuyết Đại Tây Dương (Gadus morhua L.), trong khi O3 đã thường xuyên phân lập từ chình châu Âu bị bệnh (Anguilla anguilla). Những loài Vibrio spp. khác có khả năng gây bệnh trên một số loài cá như cá tráp nuôi (Sparus aurata), bao gồm Vibrio harveyi (Vibrio carchariae), V. fischeri, V. alginolyticus, V. splendidus và V. ichthyoenteri (García-Rosado et al. 2007).

1. Vibrio anguillarum

Vibrio anguillarum, thường được gọi là Listonella anguillarum (MacDonnell và Colwell 1985) và Vibrio ordalii là các mầm bệnh khá phổ biến ở cá hồi, cá chình và cá biển (ví dụ như cá trắm biển châu Âu, Dicentrarchus labrax L., cá bơn – Scophthalmus maximus). Phương thức lây truyền vi khuẩn đã được nghiên cứu ở một số loài cho thấy V. anguillarum có thể xâm nhập qua biểu mô cá ở nhiều vị trí bao gồm da và đường ruột (Birkbeck và Ring 2005; Toranzo và cộng sự 2005).

Grisez và cộng sự (1996) đã thử nghiệm đường lây nhiễm của V. anguillarum sau khi thử nghiệm đường miệng với thức ăn sống trên cá bơn. Kỹ thuật này được thiết lập bởi Chair và cộng sự (1994) bằng cách ức chế sinh học của V. anguillarum đối với Artemia nauplii. Nồng độ cao của vi khuẩn có thể được kết hợp theo cách này (5 × 10^8 V. anguillarum tế bào /6000 Artemia), và sau khi cho nuôi trong 12 ngày, tỷ lệ tử vong trên Artemia naupli là 61% đã được ghi nhận. Vi khuẩn được giải phóng khỏi Artemia chủ yếu ở phần trước của ruột (từ phần cuối của dạ dày đến đầu ruột sau). Sau đó, chúng di chuyển qua biểu mô đường ruột và được giải phóng đến màng tế bào (Grisez et al., 1996). Từ màng tế bào, vi khuẩn đi qua qua máu đến gan.

Trong một nghiên cứu khác phát hiện cá heo Wolffish (Anarhichas minor Olafsen) được thử nghiệm với V. anguillarum (Ring và cộng sự, 2006). Kết quả cá bị nhiễm trùng, các tế bào ruột bị chết và bong tróc ra đã được quan sát. Một số nghiên cứu đã gây ra nhiễm trùng thực nghiệm của cá hồi vân. Baudin et al. (1987) thí nghiệm cá hồi vân bằng cách nhúng vào dịch huyền phù của V. anguillarum (10^5 vi khuẩn/mL) và báo cáo rằng dạ dày và đường ruột của cá đều bị nhiễm một vài giờ sau khi tiếp xúc.

Trong một nghiên cứu khác của Spanggaard et al. (2000) cá hồi cầu vân bị nhiễm khuẩn V. anguillarum. Sự xuất hiện cá chết đã xảy ra 48 giờ sau khi bị nhiễm trùng. Da có mật độ vi khuẩn cao hơn đáng kể so với tất cả các vị trí nhiễm khuẩn khác, bao gồm đường tiêu hoá. V. anguillarum đã hình thành ở da ở 95% và 100% cá sau 24 và 48 giờ sau nhiễm trùng. So với ở 80% và 95% ở ruột sau 24 và 48 giờ sau nhiễm trùng. Số vi khuẩn trong ruột không đạt đến mức như trên da.

Giai đoạn ban đầu của sự nhiễm khuẩn ở đường tiêu hoá có thể bao gồm phản ứng Chemotactic, sự hình thành và gia tăng lượng chất nhầy ruột trước khi vi khuẩn tác động đến các biểu mô tế bào. Trong thực tế, O’Tooleetal (1999) đã điều tra sự nhạy cảm với cơ thể của bệnh V. anguilarum tới chất nhầy da và chất nhầy trong ruột cá hồi vân. Chất nhầy lại giàu chất dinh dưỡng mà vi khuẩn có thể sử dụng cho sự phát triển. Chủ đề này là trọng tâm của một nghiên cứu của Garcia et al. (1997) nghiên cứu sự phát triển của V. anguillarum trong chất nhầy trong ruột của cá hồi Đại Tây Dương, và cho thấy rằng vi khuẩn có khả năng tăng trưởng nhanh trong chất nhầy trong ruột. Trong một nghiên cứu khác, Larsen và cộng sự (2001) quan sát thấy V. anguillarum có ý nghĩa hóa học nhiều hơn về chất nhầy từ da và ruột của cá hồi vân so với chất nhầy mang. Người ta đã quan sát thấy V. anguillarum có thể liên kết với thụ thể Glycosphorid (glycosylceramide) trung tính trên bề mặt tế bào biểu mô của ruột cá hồi vân (Irie và cộng sự, 2004), có thể giải thích một số cơ chế gắn kết được quan sát trong các nghiên cứu trước. Trong một nghiên cứu trước đó, Chen và Hanna (1992) đã nhận ra rằng V. anguillarum, V. ordaliiV. parahaemolyticus có thể gắn với các tế bào cá hồi vân ở tuyến sinh dục, vết bẩn của mang, ruột, niêm mạc miệng và da.

2. Vibrio salmonicida

Vibriosis nước lạnh là một loại bệnh do vi khuẩn Vibrio salmonicida gây ra (Egidius và cộng sự 1986), được phân loại lại như với tên Aliivibrio salmonicida (Urbanczyk và cộng sự, 2007). Bệnh gây hại nguy hiểm nhất trên cá hồi Đại Tây Dương ở Na Uy, Scotland và quần đảo Shetland, nhưng bệnh này cũng đã được ghi nhận tại cá hồi vân và cá tuyết Đại Tây Dương (Bruno và cộng sự, 1986; Press và Lillehaug 1995).

Những thay đồi biểu hiện bệnh lý trong cá hồi Đại Tây Dương thử nghiệm bao gồm: gan nhợt nhạt, bong hơi và ruột non xuất huyết. Vi khuẩn này lây lan qua hệ thống mạch máu. Trong giai đoạn đầu của bệnh, vi khuẩn đã được nhận thấy rõ ràng bên trong hệ tuần hoàn. Tổn thương nặng nhất đã được phát hiện ở tim, các sợi cơ đỏ và màng nhầy của ruột (Totland và cộng sự, 1988). Tuy nhiên, biểu mô ruột không có thay đổi cấu trúc, cho thấy đường tiêu hóa không phải là tuyến đường lây nhiễm chính của vi khuẩn.

3. Vibrio vulnificus

Vibrio vulnificus là một loại vi khuẩn gây bệnh độc hại đối với người, chình, cá rô phi và tôm. Các chủng độc hại đối với lươn châu Âu được phân loại là hai serovars (Fouz và Amaro 2003). Bệnh do những vi khuẩn này gây ra ảnh hưởng đến lươn nuôi  ở nước lợ (serovar E) và nước ngọt (serovar A) (Fouz và cộng sự, 2010; 2010). Các kết quả thu được bởi Fouz và cộng sự  (2010) đã chứng minh rằng cả hai serovars lây lan qua nước và lươn bị nhiễm bệnh – serovar A xâm nhập chủ yếu qua đường tiêu hóa và serovar E bởi mang. Ngoài ra, cả hai serovars đã gây bệnh cho cá rô phi (Oreochromis spp.), Cá trắm biển và cá hồi vân, nhưng không phải đối với cá chình biển.

4. Vibrio ichthyoenteri

Kể từ năm 1971, một bệnh do vi khuẩn đường ruột có đặc điểm hoại tử ruột và mật độ rất cao tại ruột đã được quan sát thấy trong cá vây Nhật Bản (Paralichthys olivaceus Temminck và Schlegel). Cần lưu ý rằng bệnh chỉ xảy ra trong ruột của giai đoạn ấu trùng (Ishimaru và cộng sự, 1996; Kim và cộng sự. 2004; Montes , 2006).

Bệnh này là một trong những bệnh nghiêm trọng nhất ở trại sản xuất giống tôm của Hàn Quốc và Nhật Bản do Vibrio ichthyoenteri (Ishimaru và cộng sự, 1996), trước đây mô tả như là loài Vibrio INFL (hoại tử ruột của ấu trùng) (Masumura và cộng sự, 1989). Lại rất ít người biết về tính gây bệnh của loài này.

5. Vibrio harveyi (Vibrio carchariae)

Mặc dù Vibrio harveyi (hay V. carchariae) thường được tìm thấy trong môi trường sống tự nhiên trong môi trường thủy sinh và thường được báo cáo là có trong dải tiêu hóa của cá và động vật có vỏ đá vôi khoẻ mạnh, một số báo cáo mô tả V. harveyi là tác nhân gây bệnh nhiễm trùng viêm dạ dày ruột ở một số loài cá (Austin và Zhang 2006, Cano-Gomez và cộng sự, 2009).

Liu và cộng sự (2004) đã mô tả sự bùng phát dịch bệnh với tỉ lệ tử vong nghiêm trọng ở cá chẽm nuôi (Rachycentron canadum L.) có biểu hiện ruột sưng có chứa dịch màu vàng trong suốt. Tất cả cá chết đều có biểu hiện viêm dạ dày ruột và V. harveyi được cho là tác nhân gây bệnh.

Xét nghiệm mô bệnh học cho thấy các tổn thương đến phúc mạc và ruột sau. Mô này có liên quan đến sự hoại tử, sự lắng đọng fibrin, xuất huyết và viêm nhiễm tế bào bị xâm nhập. V. harveyi / carchariae cũng đã được phân lập từ cá mú chấm (Epinephelus coioides) (Yii và cộng sự, 1997) thể hiện ruột sưng với dịch màu vàng trong suốt. Trứng cá bị hoại tử, gan xuất huyết, đường tiêu hóa trống rỗng, viêm túi mật to và viêm thận thân. Mô bệnh học cho biết có sự hiện diện của vi khuẩn xung quanh các màng mang và trong lòng ruột và trong một số mẫu biểu mô ruột xuất hiện hoại tử rất cao. Tỷ lệ chết trên 60% cá thể trong ao nuôi.

Phần II: Vi khuẩn gây bệnh trên cá phân lập môi trường nước ngọt

1. Aeromonas Salmonicida

Aeromonas salmonicida là tác nhân gây ra bệnh furunculosis đặc trưng (furunculosis là một bệnh trên da cá xuất hiện vô số cá hạt mụn nhỏ và lở loét). A. salmonicida tạo ra nhiều enzyme proteaza ngoại bào và các chất độc có ảnh hưởng đến các loại tế bào cá khác nhau.

Từ năm 1994, một loại kit thăm dò đã được sử dụng để phát hiện A. salmonicida trong nước thải, nước nuôi, phân và mẫu trầm tích từ các trại giống cá hồi Đại Tây Dương (O’Brien và cộng sự, 1994). Bằng phương pháp này O’Brien và cộng sự. (1994) đã phát hiện mối tương quan giữa mầm bệnh và biểu hiện ngoài.

Tiêu chuẩn hình thái khuẩn lạc và enzyme-linked immunosorbent assay (ELISA) đã được sử dụng để phát hiện A. salmonicida trong các mẫu thận, ruột và chất nhầy của cá hồi Đại Tây Dương (Hiney và cộng sự, 1994). Các tác giả này gợi ý rằng ruột có thể là vị trí chính của A. salmonicida sau đó là chất nhầy, vây và mang. Inastudyon Arcticcharr (Salvelinus alpinus L). Biểu mô trung vị của cá bị nhiễm bệnh có số lượng tế bào mầm cao hơn (tế bào sản sinh chất nhầy), và vi khuẩn được tìm thấy tập trung ở các biểu mô.

Các nghiên cứu khác đã tìm hiểu các tuyến lây nhiễm ở cá hồi Đại Tây Dương sau khi tắm và thử nghiệm trong ruột với A. salmonicida (Rose và cộng sự, 1989). Kết quả của nghiên cứu này cho thấy nhiễm A. salmonicida có thể xảy ra do ăn phải thức ăn nhiễm khuẩn và sau khi mầm bệnh tiếp xúc với biểu bì. Jutfelt và các đồng nghiệp nghiên cứu sự dịch chuyển của A. salmonicida có thể sống được qua ruột của cá hồi vân (Jutfelt và cộng sự, 2006; 2008).

Vi khuẩn này dường như sử dụng một số cơ chế cho sự chuyển vị này bao gồm các protein bề mặt và các protein bị tiết ra (Jutfelt và cộng sự 2008, Dacanay và cộng sự, 2010). Ring và cộng tác viên. (2004) đã quan sát những tổn thương tế bào đáng kể trong cá hồi Đại Tây Dương sau khi nhiễm A. salmonicida. Biểu bỉ ruột bị tách ra khỏi vùng ruột trước, trong khi ở ruột sau ít bị tổn thương hơn.

2. Aeromonas hydrophila

Aeromonas hydrophila là một vi khuẩn Gram âm di động có thể gây bệnh cả nước ấm và cá nước lạnh. Nhìn chung, A. hydrophila không gây bệnh ở cá khỏe mạnh.

Vi khuẩn này đã được báo cáo là một mầm bệnh thứ cấp hoặc một mầm bệnh cơ hội trong các tình huống cá bị sốc như mức oxy thấp, biến động nhiệt và sinh sản (Harikrishnan và Balasundaram 2005).

Theo báo cáo của Hazen và cộng sự  (1982), các dòng phân lập của A. hydrophila từ các vết thương của cá có chỉ số Chemotactic cao hơn đáng kể để tạo ra nhiều chất nhầy hơn so với các dòng phân lập của A. hydrophila từ nước. Trong một nghiên cứu gần đây, chemotaxis hướng tới, bám dính vào và tăng cao ở chất nhầy ruột cá chép (Cyprinus carpio) của hai chủng A. hydrophila được khảo sát (Van der Marel và cộng sự, 2008). Cả hai chủng không di chuyển về phía chất nhầy, nhưng chủng gây bệnh của hai loài cho thấy độ bám dính cao hơn 13 lần với chất nhầy. Theo các nhà nghiên cứu, sự nhân lên nhanh chóng của vi khuẩn trong chất nhầy có thể làm tăng khả năng gây bệnh do sự ăn mòn chất nhầy và giảm hiệu quả kinh tế đối với người nuôi (Van der Marel và cộng sự, 2008).

Mặc dù có những dữ liệu thú vị này, người ta đã gợi ý rằng da và biểu mô da là những con đường chính cho các loài A. hydrophila xâm nhập gây hại cá chép (Chu và Lu, 2008). Các nghiên cứu trong tương lai về tính gây bệnh của A. hydrophila đang rất được khuyến cáo.

3. Edwardsiella spp.

Các thành viên của chi Edwardsiella là trực khuẩn gram âm, không sinh bào tử, có khả năng di động, yếm khí tùy nghi. Có ba loài trong chi và hai trong số đó là gây bệnh cho cá: Edwardsiella ictaluriEdwardsiella tarda.

3.1. Edwardsiella ictaluri

Edwardsiella ictaluri là tác nhân gây nhiễm trùng đường ruột của cá Tra (ESC) hay bệnh gan thận mủ, có thể gây tử vong rất cao (Thune và cộng sự 1993, Birkbeck và Ring 2005). Sinh học về bệnh của ESC được nghiên cứu trước đây do nhiễm trùng thực nghiệm cá trê kênh (Ictalurus punctatus Rafinesque) qua đường ruột và nước (Shotts và cộng sự, 1986). Cá bị lộ ra có dấu hiệu nhiễm trùng toàn thân trong vòng 2 tuần, bị viêm ruột, viêm gan, viêm thận kẽ và viêm cơ. Ngoài ra, vi khuẩn đã được quan sát thấy ở niêm mạc ruột, và sau đó nó đã được chứng minh rằng E. ictaluri có thể xâm nhập, tồn tại và sao chép trong các đại thực bào của cá da trơn (Booth và cộng sự, 2006).

3.2. Edwardsiella tarda

Edwardsiella tarda là một mầm bệnh của một số loài cá như cá chép, cá đối (Mugil cephalus L.), cá rô phi (Tilapia mossambica Peters), chình Nhật Bản (Anguilla japonica Temminck và Schlegel), cá da trơn và cá bơn Nhật Bản (Thune và cộng sự, 1993).

Đặc điểm sinh học bệnh của Edwardsiellosis thực nghiệm đã được nghiên cứu trong cá bơn Nhật Bản bằng cách tiêm màng bụng, ngâm và đường miệng (Rashid và cộng sự, 1997). Sự hiện diện của E. tarda trong các mô ruột, gan và thận luôn cao hơn so với trong máu. Kiểm tra mô bệnh học cho thấy những dấu hiệu hoại tử lớn trong gan và thận, hoại tử nhỏ ở biểu mô và lớp đệm niêm mạc ruột.

Trong một nghiên cứu khác, sự xâm nhập của E. tarda trong cá cẩm thạch đã được nghiên cứu bằng cách ngâm (Ling và cộng sự, 2001.); các vi khuẩn được phát hiện trong tất cả các bộ phận của cá chỉ một ngày sau khi tiếp xúc, với mật độ vi khuẩn cao nhất trong phần trước của ruột. Vào ngày thứ bảy, số vi khuẩn có mặt ở tất cả các cơ quan được nghiên cứu.

Phần III: Vi khuẩn gây bệnh trên cá phân lập trong nước ngọt và mặn

1.Yersinia ruckeri

Yersinia ruckeri là tác nhân gây bệnh trên bệnh đường ruột nguy hiểm (ERM) (Furones và cộng sự, 1993). Bệnh này đã được ghi nhận ở cá hồi, chủ yếu ở cá hồi vân ở Bắc Mỹ, Châu Âu, Úc và Nam Phi (Tobback và cộng sự, 2007). Y. ruckeri thuộc họ Enterobacteriaceae và là một trực khuẩn Gram âm có khả năng di động. Có tới 25% tổng số cá hồi vân trong quần thể được nhận biết có mang vi khuẩn trong ruột non  (Busch và Lingg,1975).

Con đường xâm nhập của Y. ruckeri đã được nghiên cứu bởi Tobback và cộng sự (2009) sau khi cho nhiễm trùng thực nghiệm. Những nghiên cứu này chứng minh rằng các mang có thể là một con đường quan trọng giúp vi khuẩn xâm nhập. Ngoài ra vi khuẩn có thể tiếp cận với cơ thể bằng nhiều con đường khác, bao gồm da và ruột (Busch và Lingg, 1975; Tobback và cộng sự, 2009).

2. Piscirickettsia salmonis

Piscirickettsiosis là bệnh do vi khuẩn gây bệnh nội bào Gram âm, Piscirickettsia salmonis, và lần đầu tiên được phân lập từ cá hồi biển được nuôi cấy ở Nam Chile (Fryer và cộng sự.,1990, Garcés và cộng sự., Branson và Diaz-Munoz 1991; Fryer và cộng sự, 1992). Bệnh cũng được quan sát thấy ở các loài cá hồi khác như cá hồi Chinook, cá hồi vân, cá hồi Mascara (Oncorhynchus masou Brevoort) và cá hồi Đại Tây Dương (Fryer và Lannan 1996; Almendras và cộng sự, 1997; Smith et al.1999). Bệnh cũng đã được báo cáo ở Canada, Na Uy và Ireland (Marshall và cộng sự, 1998). Các vi khuẩn giống Piscirickettsia cũng có liên quan đến các bệnh ở loài cá khác. Ví dụ như cá nheo trắng ở biển (Atactoscion noblis Ayres), cá chẽm đen (Dicentrarchus sp.), Cá rô phi (OreochromisSarotherodon spp.) Và cá mập mắt xanh (Panaque suttoni Eigenmann và Eigenmann) (Mauel và Miller, 2002).

Cá hồi Coho và cá hồi Đại Tây Dương trước đây đã được thử nghiệm về sự nhạy cảm của chúng với Rickettsia (Garces và cộng sự., 1991). Tỷ lệ tử vong dao động từ 88% đến 100% ở cả hai loài. Cá Moribund bị thiếu máu, mang và gan nhợt nhạt, lá lách sưng to. Đường tiêu hóa chứa nhiều chất lỏng và không có thức ăn. Thử nghiệm nhiễm trùng P. salmonis qua đường tiêm, miệng và ngâm được so sánh. Kết quả cho thấy các nguy cơ  tử vong cao nhất do nhiễm trùng qua đường miệng.

3. Pseudomonas anguilliseptica

Pseudomonas anguilliseptica là vi khuẩn Gram âm ban đầu được mô tả trong lươn Nhật Bản bị nhiễm khuẩn huyết do xuất huyết. Ở Châu Âu, có rất nhiều loài cá bị bệnh này: cá vây chân đen, cá chít đen (Acanthopagrus schlegeli Bleeker), cá biển châu Âu và cá bơn (Doménech và cộng sự, 1997). P. anguilliseptica cũng được phân lập từ cá hồi bệnh ở Phần Lan (Wiklund và Bylund 1990). Cá bơn cũng đã được chứng minh là nhạy cảm với vi khuẩn trong ổ bụng và tử vong (Magi và cộng sự 2009). Các dấu hiệu lâm sàng của cá bị nhiễm bệnh là sự tràn dịch màng trong khoang  phúc mạc, xuất huyết trên thận và gan, và ruột bị tắc nghẽn có chứa chất dịch màu vàng (Doménech và cộng sự., 1997). Các vi khuẩn có biểu hiện dương tính được phát hiện ở lá lách, ruột, gan, thận, cơ và não. Những thay đổi mô bệnh học đã được nhìn thấy trong ruột bốn ngày sau khi tiêm, bao gồm tăng bạch cầu ở các tế bào biểu mô, và bảy ngày sau sẽ hoại tử nhiễm trùng và phù nề niêm mạc ruột.

4. Photobacterium damsela subsp. Piscicida (Pasteurella piscicida)

Photobacterium damsela subsp. Piscicida, trước đây là Pasteurella piscicida, là một loại vi khuẩn gram âm, không di động và là tác nhân gây bệnh trong máu cá. Bệnh gây ra nhiễm trùng đường huyết, cá bệnh có những vết trắng ở các cơ quan nội tạng. Các ví dụ về các loài bị ảnh hưởng là cá trắm biển châu Âu, cá tuyết, cá ngừ và cá bơn Nhật Bản (Magarinos và cộng sự., 1996). Xét nghiệm huyết thanh học vi khuẩn tạo thành một nhóm đồng nhất. Các báo cáo cho thấy rằng Photobacterium damsela subsp. Piscicida có thể xâm nhập qua đường miệng, vì vi khuẩn này đã được phân lập từ cá ngựa nước ngọt (Channa maculate Lacépède) nuôi với cá biển bị nhiễm bệnh làm thức ăn. Ngoài ra, người ta phát hiện ra rằng P. damsela subsp. Piscicida nhiễm bệnh từ đuôi hoặc thông qua các mang. Cá chình biển tiếp xúc với P. damsela subsp. Vi khuẩn piscicida trong ống phân, phẫu thuật cấy vào khoang bụng gây hoại tử hoại tử ở ruột và niêm mạc mạc ruột sau khi xâm nhập, cùng với các tế bào viêm (Poulos và cộng sự, 2004).

5. Nhóm gây Streptococcosis

Streptococcosis là một bệnh nhiễm trùng huyết có ảnh hưởng đến cá nuôi và cá hoang dã nước ngọt. Bệnh đã được báo cáo ở cá bơn đuôi vàng, lươn Nhật, sọc trầm (Morone saxatilis Walbaum), cá đối (Mugil cephalus L.) và cá mòi dầu (Brevoortia patronus Goode) (Kusudaand Salati1993; Romalde và cộng sự., 1996) bao gồm Lactococcus garvieae, Lactococcus piscium, Streptococcus iniae, Strep-tococcus agalactiae, Streptococcus parauberis, Enterococcus spp. Các con đường có thể xảy ra nhiễm trùng đã được điều tra bởi tiếp xúc với nguồn nước và tiêm chủng trong dạ dày với thức ăn và phân bị nhiễm một số chủng Enterococcus – phân lập từ cá bơn bệnh (Romalde và cộng sự. 1996).

6. Candidatus arthromitus

Là tên của một vi khuẩn Gram âm (SFB), tác nhân gây ra viêm tuyến tiêu hoá cá hồi cầu vân xuất hiện chủ yếu vào mùa hè (Michel và cộng sự, 2002). Căn bệnh này được mô tả lần đầu tiên ở Pháp vào năm 1992 và sau đó là ở Tây Ban Nha, Ý, Anh và Croatia (Del-Pozo và cộng sự, 2009; 2010a). Việc khám nghiệm mẫu cá chết nghi ngờ bị nhiễm RTGE cho thấy có viêm ruột cấp tính với niêm mạc ruột có xuất huyết và tràn dịch màng phổi. Sự thay đổi bệnh lý cũng bao gồm sự tách rời của nhiều lớp niêm mạc dẫn đến sự phơi nhiễm trực tiếp của các chất ở màng tế bào (Del-Pozoetal., 2010).

7. Mycobacterium spp.

Mycobacterium spp. có thể tồn tại và nhân bản trong các đại thực bào cho phép chúng tránh được hệ miễn dịch của cơ thể. Mycobacteriosis gây ra các vết loét trên da, tế bào hạt bị tổng thương và teo nhỏ. Những u hạt trắng xám phát triển trong gan, thận, lá lách, tim, cơ và ruột.

Hiện nay không có phương pháp chữa bệnh do Mycobacteriosis. Bệnh có thể truyền sang người. Cá nhiễm bệnh giải phóng vi khuẩn khỏi da, mang và đường tiêu hóa. Nhiễm trùng có thể lan truyền khi cá tiếp xúc trực tiếp với vật liệu nhiễm trùng hoặc ăn các mô nhiễm bệnh. Ví dụ về những điều này là từ những năm đầu của ngành công nghiệp cá hồi, nơi mà cá được cho ăn phế thải từ cá không được tiệt trùng sau đó gây ra một vấn đề nghiêm trọng là bệnh mycobacteriosis. Và ghi nhận cá chết và tiến hành thẩm định mô học.

Phân lập vi khuẩn Mycobacterium marinum gây ra 100% cá nhiễm trùng và tỷ lệ tử vong từ 30% đến 100%. Việc lây truyền vi khuẩn có thể xảy ra giữa cá tự nhiên và cá lồng nếu cá hoang dã địa phương có thể tiếp cận lồng nuôi cá, nếu động vật hoang dã thoát khỏi lồng bè vào hệ sinh thái xung quanh hoặc nếu có ô nhiễm qua hệ thống nguồn nước.

Source: Trị Thủy, TepBac

Trieu Tuan
Trieu Tuan
Triệu Tuấn là một ông bố 2 con, tốt nghiệp Tiến sỹ chuyên ngành Công nghệ sinh học tại Nhật Bản. Hiện nay đang công tác tại Trung tâm Xúc tiến đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp tỉnh Cà Mau (iPEC).

Share this article

Recent posts

Popular categories

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Recent comments