Có thể xác định chủng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây bệnh EMS/AHPND bằng phương pháp nuôi cấy trên môi trường thạch?

-

Vào ngày 01 tháng 5 năm 2013, Liên minh Nuôi trồng thủy sản toàn cầu (Global Aquaculture Alliance-GAA) báo cáo rằng tiến sĩ Donald Lightner cùng cộng sự tại Đại học Arizona, đã tìm ra nguyên nhân của hội chứng tôm chết sớm (EMS), một căn bệnh làm thiệt hại cho ngành ngành công nghiệp nuôi tôm một tỷ đô la một năm.

Nhóm nghiên cứu của TS. Lightner đã phát hiện thấy rằng EMS được gây ra bởi một chủng duy nhất của một loài vi khuẩn tương đối phổ biến đó là, Vibrio parahaemolyticus. Vi khuẩn được lây truyền qua đường miệng (orally), sau đó chúng xâm nhập vào đường tiêu hóa tôm, tạo ra độc tố gây phá hủy mô, làm rối loạn chức năng của gan tụy và cơ quan tiêu hóa của tôm. Sau khi tác nhân gây bệnh Hoại tử gan tụy trên tôm được công bố, có rất nhiều câu hỏi đặt ra xung quanh việc làm thế nào để chuẩn đoán sớm mầm bệnh để tránh thiệt hại cho người nuôi tôm. Theo như cách nghĩ thông thường thì bệnh do vi khuẩn chúng ta có thể phân lập và định danh chúng trên môi trường thạch. Tuy nhiên, trường hợp vi khuẩn gây bệnh Hoại tử gan tụy trên tôm hoàn toàn khác, chúng ta có thể phân lập và cả định danh loài vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus này bằng phương pháp phân lập trên môi trường thạch, nhưng không chắc chắn là chủng vi khuẩn này có độc tố hay không và có phải là tác nhân gây bệnh hay không vì có rất nhiều dòng khác nhau thuộc loài Vibrio parahaemolyticus. Hiện tại, phương pháp chuẩn đoán chính xác chủng vi khuẩn gây bệnh Hoại tử gan tụy vẫn đang được nhóm nghiên cứu do TS. Trần Hữu Lộc đứng đầu triển khai ở trường Đại học Arizona.

image

Hình: Tôm thẻ chân trắng, Litopenaeus vannamei có dấu hiệu nhiễm bệnh Hoại tử gan tụy (A, B). Gan tụy (HP) teo, màu nhợt nhạt; dạ dày (ST) và ruột (MG) không có thức ăn. Hình (C, D) là tôm khỏe cho thấy HP có kích thước bình thường với màu da cam hơi tối, dạ dày và ruột đầy thức ăn. Hình (B) và (D) là mẫu lấy từ hai con tôm ở hình (A) và (C) tương ứng. Nguồn: Loc Tran et al., 2013.

1. Về loài vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus

Loài vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus này hết sức phổ biến trong môi trường nước lợ/mặn và cả trên tôm; do đó, tôm bệnh hay không bệnh, đều có thể mang vi khuẩn này. Cộng đồng khoa học thế giới đã phân biệt có đến hàng trăm dòng Vibrio parahaemolyticus khác nhau thuộc loài này, tuy nhiên chỉ có một thiểu số các dòng có mang độc lực để có thể gây bệnh (trên người) như nhân loại đã biết và dòng vi khuẩn gây bệnh EMS trên tôm là một trong số các thiểu số đó do tôi và các đồng nghiệp ở trường ĐH Arizona, Mỹ xác định (Loc Tran et al., 2013). Điều này tương tự như việc vi khuẩn Escherichia coli là hết sức phổ biến trong đường ruột của người nhưng chỉ có thiểu số các dòng của loài vi khuẩn này gây được bệnh, ví dụ như Escherichia coli O157:H7. Có rất nhiều dòng vi khuẩn cùng loài sống hạnh phúc trong đường ruột của vật chủ nhưng không gây bệnh được gọi là “commensal bacteria”. Việc phát hiện vi khuẩn V. parahaemolyticus một cách chung chung không được coi là cách chẩn đoán phát hiện bệnh EMS. Do đó, vấn đề cốt lõi trong chuẩn đoán bệnh Hoại tử gan tụy hiện nay là tìm được dòng vi khuẩn mang độc lực. Với kỹ thuật hiện tại, chúng tôi làm được điều này; nhưng để kỹ thuật có thể được phổ biến rộng rãi đến bà còn, chúng tôi cần tiếp tục nghiên cứu các phương pháp khác như PCR và ELISA để xác định chính xác dòng gây bệnh cho công tác chẩn đoán.

2. Về môi trường thạch chọn lọc vi khuẩn

Một số loại môi trường thạch phổ biến (ví dụ TSA- Tryptic Soy Agar + NaCl) có thể cho phép hầu hết loại vi khuẩn Vibrio thông thường mọc. Một số môi trường chọn lọc như TCBS (Thiosulfate-citrate-bile salts-sucrose) cho phép chọn lọc các nhóm vi khuẩn dựa trên các đặc điểm sinh hoá khác nhau. Tuy nhiên, môi trường TCBS chỉ có thể phân loại vi khuẩn Vibrio thành hai nhóm: có sử dụng và không sử dụng đường sucrose. Một số nỗ lực sâu hơn để tìm các loại môi trường thạch ví dụ TSA + Triphenyltetrazolium Chloride nhằm phân biệt 2 loài vi khuẩn khá gần nhau về đặc điểm sinh hoá như 2 loài V. parahaemolyticus V. alginolyticus thì lại không giúp phân biệt các loài vi khuẩn phổ biến khác như V. vulnificus V. fluvialis… Do đó, hiện tại KHÔNG có một loại môi trường thạch nào có thể chỉ cho phép 1 loài vi khuẩn mọc và để dịnh danh vi khuẩn dựa vào môi trường thạch. Do đó, không thể có một môi trường thạch chỉ cho phép vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus mọc. Chúng ta có thể dùng các phương pháp sinh hóa hoặc phân tử để xác định đến mức độ loài của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus, nhưng hoàn toàn không xác định được độc lực của chủng vi khuẩn này cũng như nó có phải là tác nhân gây bệnh Hoại tử gan tụy hay không nếu không có những nghiên cứu sâu hơn.

Bà con có thể tìm hiểu thêm về bệnh dịch EMS/AHPNS hay còn gọi là Bệnh hoại tử gan tụy trên tôm dựa trên các ấn phẩm khoa học do chúng tôi xuất bản và đã được cộng đồng khoa học thế giới xác nhận. Trong các nghiên cứu này, chúng tôi nhấn mạnh rất rõ rằng chỉ có dòng đặc biệt của Vibrio parahaemolyticus mới có khả năng gây bệnh hoại tử gan tụy. Do đó, phương pháp xác định dòng vi khuẩn này đang được tiếp tục tiến hành nghiên cứu trước khi có thể công bố cho cộng đồng khoa học thế giới và đến với bà con nuôi tôm. Hiện tại chúng tôi đang ráo riết nghiên cứu để tìm phương pháp chẩn đoán đúng sự hiện diện của vi khuẩn gây bệnh.

Trong thời điểm hiện tại, chúng tôi chỉ có thể khuyến cáo bà con thực hiện các phương pháp thực hành nuôi tốt được ban hành bởi các cơ quan chức năng, ví dụ như áp dụng an toàn sinh học trong trại nuôi, trại nuôi có đủ diện tích ao lắng, xử lý nước ao đúng phương pháp, thực hiện việc tẩy trùng xử lý ao đúng phương pháp khi xảy ra dịch bệnh, và đặc biệt là các phương pháp giúp giảm thiểu thiệt hại do bệnh trong vùng dịch ví dụ như nuôi rải vụ, nuôi luân canh và nuôi ghép với các đối tượng thuỷ sản khác như cá rô phi hay cá măng,…

Hiện tại, một phương pháp phát hiện nhanh và sớm vi khuẩn này ở giai đoạn tôm bố mẹ và tôm giống là cần thiết hơn để phòng ngừa bệnh. Hy vọng chúng ta sẽ sớm có giải pháp toàn diện để phòng ngừa và điều trị bệnh này trong thời gian sớm nhất.

© Trần Hữu Lộc, Triệu Tuấn, trieutuan.blog
Tham khảo thêm: Loc Tran, Linda Nunan, Rita M. Redman, Leone L. Mohney, Carlos R. Pantoja, Kevin Fitzsimmons, Donald V. Lightner. Determination of the infectious nature of the agent of acute hepatopancreatic necrosis syndrome affecting penaeid shrimp. Dis Aquat Org. Vol. 105: 45–55, 2013. doi: 10.3354/dao02621.  

Trieu Tuan
Trieu Tuan
Triệu Tuấn là một ông bố 2 con, tốt nghiệp Tiến sỹ chuyên ngành Công nghệ sinh học tại Nhật Bản. Hiện nay đang công tác tại Trung tâm Xúc tiến đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp tỉnh Cà Mau (iPEC).

Share this article

Recent posts

Popular categories

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Recent comments