Ảnh hưởng của thời gian thủy phân và phương thức bổ sung bột gạo lên sinh trưởng và phát triển tôm thẻ chân trắng nuôi theo quy trình biofloc

-

Nuôi trồng thủy sản đã và đang phát triển nhanh chóng ở nhiều quốc gia Châu Á trong suốt nhiều thập niên qua, sự thâm canh hóa của nghề nuôi đã tạo ra sự tích lũy vật chất hữu cơ chưa được khoáng hóa và các dạng đạm vô cơ có thể gây độc như ammonia và nitrite. Theo Andrew (2012) cho rằng hàm lượng TAN có thể được kiểm soát bởi vi sinh vật nhờ vào sự hấp thụ và chuyển hóa dinh dưỡng trong thủy vực, giúp môi trường ao nuôi được cải thiện đặc biệt là nhóm vi khuẩn dị dưỡng và để vi khuẩn dị dưỡng phát triển thì cần bổ sung thêm carbohydrate để tạo năng lượng cho quá trình phân bào và các hoạt động sống.

Vi khuẩn dị dưỡng cần khoảng 40-60% vật chất hữu cơ trong quá trình phân hủy để xây dựng và phân chia tế bào mới (Avnimelech, 1999). Để phân chia tế bào vi khuẩn dị dưỡng cần lượng đạm vô cơ trong môi trường và carbohydrate hữu cơ bổ sung ở dạng đơn giản, có như thế thì sự chuyển hóa này mới diễn ra mạnh và triệt để. Các vi sinh vật phát triển trên nền vật chất hữu cơ và chúng mối quan hệ với nhau thông qua mạng lưới thức ăn tự nhiên (Moriarty, 1997).

Trong ao nuôi, hàm lượng đạm vô cơ và dạng đạm hữu cơ luôn ở mức dư thừa (Avnimelech, 1999) trong khi hàm lượng carbohydrate luôn hạn chế, vì vậy để đảm bảo sự phát triển sinh khối vi khuẩn dị dưỡng tối ưu thì nhất thiết carbohydrate phải thêm vào (Avnimelech, 2007; Emerenciano et al., 2011).

Việc bổ sung thường xuyên nguồn carbohydrate vào nước giúp vi khuẩn có thể tạo ra các dạng polymer sinh học khác nhau như Poly-Hydroxy-Alkanoates (PHA), Poly-ß-Hydroxy-Butyrate (PHB) được sản xuất bởi nhiều loại vi sinh vật. Chúng tham gia chuyển hóa từ carbon hữu cơ hòa tan thành cấu trúc tế bào vi khuẩn mới và dự trữ năng lượng (Kuhn et al. 2008). Phương thức bổ sung cơ chất hữu cơ hay cơ chất chứa carbon hữu cơ đóng vai trò hết sức quan trọng trong vận hành hệ thống biofloc.

Vi khuẩn dị dưỡng có thể loại bỏ đạm vô cơ trong ao nhanh hơn thực vật phù du (Montoya et al., 2002) do đó vi khuẩn dị dưỡng đóng một vai trò quan trọng hơn trong việc sử dụng vi tảo (Fuhrman et al., 1988). Việc đồng hóa đạm vô cơ thường bị hạn chế bởi nguồn carbohydrate hữu cơ hòa tan bởi vì vi khuẩn dị dưỡng cần phải hấp thu ít nhất bốn nguyên tử carbon hữu cơ cho mỗi nguyên tử nitrogen được đồng hóa (Gottschalk, l986).

image

Theo Nguyễn Văn Phước (2007) thì giá trị dinh dưỡng và khả năng hấp thụ nguồn thức ăn của vi khuẩn từ carbohydrate phụ thuộc vào thành phần hoá học, đặc tính vật lý và đặc điểm sinh lý của từng loại vi sinh vật. Theo Nguyễn Như Hiền (2005) cho rằng các chất hữu cơ thường có khối lượng phân tử lớn khó hấp thụ nên đòi hỏi vi sinh vật phải thủy phân thành các hợp chất đơn giản dễ hấp thụ (glucose, acid amine, acid béo). Với vi sinh vật dị dưỡng nguồn thức ăn carbohydrate làm cả hai chức năng vừa là nguồn dinh dưỡng vừa là nguồn năng lượng (Nguyễn Văn Phước, 2007).

Theo Avnimelech (2006) cho rằng trong hệ thống nuôi trồng thủy sản thâm canh thì việc bổ sung carbohydrate là cần thiết. Nhưng bổ sung theo hàm lượng tổng ammonia (TAN) trong nước hay theo lượng thức ăn (TA) và việc thủy phân chuỗi polypeptid mạch dài thành mạch ngắn giúp vi khuẩn dễ đồng hóa thì thời gian thủy phân như thế nào là thích hợp nhất, do đó nghiên cứu việc: “Ảnh hưởng của thời gian thủy phân và phương thức bổ sung bột gạo lên sinh trưởng và phát triển tôm thẻ chân trắng nuôi theo quy trình biofloc” được thực hiện.

Phương pháp nghiên cứu

Vật liệu bố trí: Thí nghiệm được thực hiện trong thời gian 30 ngày trên bể composite 0,5 m3 với độ mặn 15‰, thức ăn sử dụng có hàm lượng protein là 42% và mật độ thả tôm là 100 con/m3 (0,45 ± 0,05 g/con).

Chuẩn bị bố trí thí nghiệm: Pha nước chuẩn bị bố trí: sử dụng nước ót có độ mặn từ 80 – 100‰ pha với nước máy và được xử lý bằng chlorine 30 mg/L, sục khí mạnh cho hết chlorine trước khi sử dụng. Bột gạo được xác định hàm lượng carbohydrate và đạm tại Trung tâm Kỹ thuật & Ứng dụng Công nghệ Cần Thơ với kết quả lần lượt là 73,4% và 0,26%. Tỉ lệ C:N=15:1 được duy trì theo TA và theo TAN, theo phương pháp tính của Avnimelech (1999) và được bổ sung định kỳ 4 ngày/lần.

Bố trí thí nghiệm: Thí nghiệm được bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên với 6 nghiệm thức (TA-12; TA-24; TA-48; TAN-12; TAN-24; TAN-48) và mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần, thời gian bố trí nghiệm là 30 ngày. Với TA là thức ăn, TAN là tổng ammonia và 12, 24 hay 48 giờ là thời gian ủ bột gạo.

Phương thức thủy phân và cách tính lượng bột gạo: Bột gạo được khuấy đều vào nước nóng 40oC, sau đó được bịt kín lại theo thời gian cần sử dụng (12, 24 và 48 giờ). Lượng bột gạo bổ sung theo TAN, phân tích hàm lượng TAN trong nước sau đó nhân với 15 để được C:N~C:TAN=15:1. Phương thức bổ sung theo thức ăn, tính tỷ lệ C:N trong thức ăn 42% protein (C:N=7,68:1), tùy vào lượng thức ăn sử dụng cho tôm ăn mà thêm lượng bột gạo để đạt được tỷ lệ C:N=15:1.

Chăm sóc và cho ăn: Sử dụng thức ăn chuyên dùng trong nuôi tôm thẻ chân trắng có 42% hàm lượng protein và ngày cho ăn 4 lần (6 giờ, 10 giờ, 14 giờ và 18 giờ). Trong suốt quá trình thí nghiệm không rút cặn, không sử dụng thuốc kháng sinh; ngoại trừ bổ sung bột gạo ủ (12, 24 và 48 giờ) và được trung hòa pH về 7 và thức ăn cho tôm ăn theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Kết quả nghiên cứu

Nhiệt độ: Kết quả cho thấy trong suốt quá trình thí nghiệm nhiệt độ dao động từ 27,0 –30,4oC, nhiệt độ trung bình buổi sáng dao động từ 27,6 ± 0,5oC và buổi chiều là 29,7 ± 0,6oC, nhiệt độ buổi sáng và chiều giữa các nghiệm không có sự khác biệt (p>0,05).

pH: Kết quả nghiên cứu cho thấy, pH trung bình buổi sáng 7,86 ± 0,35 và buổi chiều là 7,99 ± 0,63 dao động từ 7,5 – 8,2; khi phân tích thống kê pH buổi sáng và pH buổi chiều giữa các nghiệm thức cho thấy không có sự khác biệt (p>0,05).

Độ kiềm: Độ kiềm trong thí nghiệm dao động từ 43,6 – 81 mgCaCO3/L có xu hướng giảm về cuối thí nghiệm, ở cuối thí nghiệm độ kiềm ở mức thấp, nhưng đều trên 40 mgCaCO3/L. Độ kiềm trong thí nghiệm giảm có thể do quá trình sinh tổng hợp của một số dòng vi khuẩn hóa tự dưỡng đã sử dụng kiềm như nguồn carbon (Ebeling, 2006). Theo Charantchakool et al. (2003) cho rằng, độ kiềm lý tưởng cho tăng trưởng và phát triển của tôm nuôi là từ 80-120 mg CaCO3/L, khi độ kiềm thấp hơn 40 mg CaCO3/L ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe tôm nuôi.

TAN (total ammonia nitrogen): Từ kết quả thí nghiệm cho thấy hàm lượng TAN không có sự tương tác giữa thời gian ủ và phương thức bổ sung bột gạo, ở các nghiệm thức bổ sung bột gạo theo TAN hàm lượng TAN dao động từ 0,1-2,88 mg/L, hàm lượng TAN cao nhất ở nghiệm thức TAN-48 tăng cao nhất vào ngày thứ 8 (2,88 mg/L) và đạt đỉnh sớm hơn so với nghiệm thức TAN-12 và TAN-24 vào ngày 12 (2,57 và 2,66 mg/L). Ở các nghiệm thức bổ sung bột gạo theo TA thì hàm lượng TAN tăng sớm nhất vào ngày thứ 4 nhưng ở mức thấp (0,03-0,85 mg/L). Nhìn chung, hàm lượng TAN trong thí nghiệm là khá thấp, bên cạnh đó pH trong thí nghiệm ở mức 7,5-8,2 nên hàm lượng NH3 là không đáng kể. Nghiên cứu của Chen et al. (1998) đã chỉ ra rằng nồng độ TAN gây chết 50% tôm trong 48 giờ với các loài tôm khác nhau nằm trong khoảng từ 30 – 110 mg/L, qua đây cho thấy hàm lượng TAN trong các nghiệm thức không gây ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của tôm nuôi.

Nitrite (NO2-): Từ kết quả thí nghiệm cho thấy hàm lượng NO2- không có sự tương tác giữa thời gian ủ và phương thức bổ sung bột gạo, hàm lượng nitrite ở các nghiệm thức bổ sung theo TA tăng cao từ ngày 8 (0,99-1,54 mg/L) đến ngày 20 (1,74-1,76 mg/L) và sau đó lại giảm xuống từ ngày 24 (1,17-1,34 mg/L). Ở các nghiệm thức bổ sung bột gạo theo TAN thì hàm lượng nitrite ở mức rất thấp (<1 mg/L), hàm lượng NO2- ở nghiệm thức bổ sung bột gạo theo TA (0,04-1,76 mg/L) cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức bổ sung theo TAN (0,04-0,55 mg/L). Qua thí nghiệm cho thấy hàm lượng ở mức cho phép cho tôm nuôi sinh trưởng và phát triển, theo Boyd (1998) thì hàm lượng NO2- cho phép trong ao nuôi thủy sản là không vượt quá 10 mg/L tốt nhất là nhỏ hơn 2mg/L và theo Alcaraz et al. (1999) thì hàm lượng NO2- gây chết 50% tôm trong 48 giờ là 240 mg/L. Thí nghiệm ở độ mặn 15‰ hàm NO2-trong thí nghiệm có thể nhận định là ít có khả năng gây độc.

Tổng chất rắn lơ lửng (TSS): Hàm lượng TSS tăng cao khi kết thúc thí nghiệm, các nghiệm thức bổ sung bột gạo theo TAN ở mức khá cao dao động từ 332-357 mg/L trong khi các nghiệm thức bổ sung theo TA cho hàm lượng TSS khá thấp dao động từ 138-170 mg/L, khi phân tích thống kê theo thời điểm cuối thí nghiệm cho thấy hàm lượng TSS có sự khác biệt giữa các nghiệm thức bổ theo TAN cao hơn các nghiệm thức bổ sung theo TA (p<0,05). Hàm lượng vật chất rắn lơ lửng tăng cao ở cuối thí nghiệm có thể do sinh khối vi khuẩn được tạo ra bởi quá trình sinh tổng hợp, vật chất hữu cơ và phân thải tôm nuôi được tạo ra ngày càng nhiều và tích lũy nên có xu hướng tăng lên. Theo đề nghị của Wasielesky et al. (2013) nuôi tôm thẻ chân trắng trong hệ thống biofloc nên duy trì hàm lượng TSS dưới 500 mg/L. Hàm lượng TSS cao nhất trong thí nghiệm cao nhất chỉ đạt 357 mg/L còn thấp hơn mức đề nghị, tuy nhiên tôm nuôi trong thí nghiệm chỉ dừng lại ở một tháng nuôi nên lượng này còn có thể tăng cao hơn khi nuôi tôm với thời gian dài hơn.

Kích thước hạt biofloc: Từ kết quả thí nghiệm cho thấy chiều rộng hạt biofloc không có sự tương tác giữa thời gian ủ và phương thức bổ sung bột gạo. Qua kết quả thí nghiệm cho thấy khi mới bắt đầu hình thành biofloc, hạt biofloc kích thước rất nhỏ (0,21×0,08 mm) và từ ngày 12 trở đi kích thước hạt biofloc bắt đầu ổn định. Ở đợt thu mẫu cuối, nghiệm thức TAN-48 có kích cỡ hạt biofloc lớn nhất đạt 0,84×0,42 mm và nghiệm thức có kích cỡ hạt biofloc nhỏ nhất là TA-12 đạt 0,64×0,32 mm. Khi phân tích thống kê cho thấy kích thước hạt biofloc có sự khác biệt về chiều rộng nhưng không có sự khác biệt về chiều dài. Ở nghiệm thức TAN-48 có chiều dài gạt biofloc lớn hơn có ý nghĩa thống kê (p <0,05) so với nghiệm thức TAN-12 và TAN-24 và nghiệm thức TA-48. Nhìn chung, kích cỡ hạt biofloc tuân theo xu hướng chung là thời gian thủy phân càng dài và phương thức bổ sung bột gạo theo TAN có kích cỡ hạt biofloc càng lớn, kích cỡ hạt biofloc càng lớn thì khả năng lắng càng nhanh đây là điểm bất lợi, nhưng bên cạnh đó kích cỡ hạt biofloc lớn tạo nên giá thể tốt cho vi khuẩn có chỗ bám tốt và tạo điều kiện cho vi khuẩn dị dưỡng hiếu khí phát triển và tăng nhanh mật độ giúp cho quần thể vi khuẩn tăng lên. Theo tổng hợp nghiên cứu của Avnimelech (2006) cho thấy kích cỡ hạt biofloc khoảng đường kính từ 0,1 – 2,0 mm đối với hệ thống nuôi tôm theo biofloc.

Lượng biofloc (FVI): Từ kết quả thí nghiệm cho thấy lượng biofloc không có sự tương tác giữa thời gian ủ và phương thức bổ sung bột gạo. Ở thời điểm kết thúc thí nghiệm lượng biofloc của các nghiệm thức TAN-12, TAN-24 và TAN-48 lần lượt tương ứng là 17; 15,3 và 13 mL/L, lượng biofloc cao nhất là nghiệm thức TAN-12 (17,0 mL/L) và thấp nhất ở nghiệm thức TA-48 (4,6 mL/L) và khi phân tích thống kê ở thời điểm này cho thấy lượng FVI ở các nghiệm thức bổ sung bột gạo theo TAN cao hơn có ý nghĩa so với nghiệm thức bổ sung theo TA (p<0,05), nhưng giữa chúng không có sự khác biệt. Nhìn chung, thời gian ủ carbohydrate càng dài thì hàm lượng biofloc càng thấp và qua thí nghiệm cho thấy khi bổ sung bột gạo theo tổng ammonia thì lượng biofloc có thể vượt cao hơn so với đề nghị của Avnimelech (2006) nên khi nuôi bổ sung carbohydrate theo TAN cần lưu ý để điều chỉnh cho phù hợp. Theo đề nghị của Avnimelech (2009) thì lượng biofloc nên duy trì trong khoảng 3-15 mL/L là phù hợp cho tôm sinh trưởng và phát triển, qua kết quả thí nghiệm cho thấy nghiệm thức TAN -12 và TAN-24 vượt quá 15 mL/L nên hàm lượng biofloc ở 2 nghiệm thức này có thể gây ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển và tỷ lệ sống tôm nuôi.

Mật độ tổng vi khuẩn: Qua kết quả thí nghiệm cho thấy mật độ vi khuẩn vibrio ở tất cả các nghiệm thức dao động từ 1,65×10^2 – 6,9 x10^4 CFU/mL. Mật độ vi khuẩn ở các nghiệm thức bổ sung bột gạo theo TAN cao hơn (5,51-6,92)x10^4 so với các nghiệm thức bổ sung theo TA (3,34-4,20)x10^4. Mật độ tổng vi khuẩn cao nhất ở nghiệm thức TAN-24 (6,9 x 10^4 CFU/mL) về cuối vụ thì mật độ vi khuẩn tổng ở tất cả các nghiệm thức có xu hướng tăng, điều này cho thấy quần thể vi khuẩn đang trong quá trình nhân lên mạnh về mật số. Theo nghiên cứu của Avnimelech (2006) và Kuhn et al. (2008) đều cho rằng khi bổ sung thêm lượng carbohydrate sẽ làm gia tăng tốc độ hình thành hạt biofloc đồng thời kích thích vi khuẩn dị dưỡng và mật độ vi sinh vật trong nước bể nuôi tăng lên, chính điều này giải thích cho việc tăng lên của mật độ vi khuẩn về cuối thí nghiệm.

Mật độ vi khuẩn vibrio: Từ kết quả thí nghiệm cho thấy mật độ vi khuẩn vibrio không có sự tương tác giữa thời gian ủ và phương thức bổ sung bột gạo. Kết quả phân tích cho thấy mật độ vi khuẩn vibrio ở tất cả các nghiệm thức dao động lớn từ 101 – 7,5 x10^3 CFU/mL. Mật độ vi khuẩn vibrio ở các nghiệm thức bổ sung bột gạo theo TAN (6,1-7,5)x10^3 cao hơn so với các nghiệm thức bổ sung bột gạo theo TA (2,50-2,83)x10^3. Trong quá trình thí nghiệm thì mật độ vi khuẩn vibrio cao nhất ở nghiệm thức TAN-48 (7,5 x 10^3 CFU/mL). Các nghiệm thức bổ sung bột gạo vi khuẩn vibrio tăng cao nhất vào ngày 20 còn ở các nghiệm thức bổ sung bột gạo theo TA thì vi khuẩn vibrio tăng cao nhất vào ngày 16. Khi phân tích tỷ lệ giữa vi khuẩn vibrio và tổng cho thấy mật độ vi khuẩn vibrio có khuynh hướng giảm dần từ 30-40% ở tuần đầu còn khoảng 10-15% ở cuối thí nghiệm. Nhìn chung, mật độ vi khuẩn vibrio trong thí nghiệm ở mức khá cao, nhưng theo kết quả nghiên cứu của Moriaty (1997) thì mật độ vibrio trong thí nghiệm này chưa đến mức gây hại cho tôm vì mật độ vi khuẩn vibrio chưa vượt quá 10^3 CFU/mL).

Tăng trưởng về trọng lượng của tôm: Kết quả cho thấy trọng lượng tôm cao nhất ở nghiệm thức TA-48 (5,18 ± 1,02 g/con) và về trọng lượng tôm nhỏ nhất ở nghiệm thức TAN-24 (4,62 ± 0,73 g/con). Khi phân tích thống kê cho thấy trọng tôm nuôi không có sự khác biệt giữa các nghiệm thức (p>0,05). Mặc dù tỷ lệ sống ở nghiệm thức bổ sung bột gạo theo TA cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) nhưng về tăng trọng không có sự sai khác, điều đó minh chứng rằng yếu tố tác động đến tỷ lệ sống của tôm nuôi trong thí nghiệm bị ảnh hưởng bởi lượng biofloc và vật chất rắn lơ lửng trong nước, chứ không ảnh hưởng mật độ tôm nuôi.

Tỉ lệ sống của tôm: Kết quả cho thấy các nghiệm thức bổ sung bột gạo theo TA, tôm nuôi cho tỷ lệ sống rất cao (95,8-97,3%) và các nghiệm thức bổ sung bột gạo TAN tôm nuôi cho tỷ lệ sống thấp hơn (75,0-84,3%). Phân tích thống kê cho thấy tỷ lệ sống tôm nuôi giữa các nghiệm thức có bổ sung bột gạo theo TA cao hơn và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với phương thức bổ sung theo TAN, tỷ lệ sống tôm nuôi không có sự khác biệt (p>0,05) trong cùng phương thức bổ sung mặc dù thời gian thủy phân càng dài tôm nuôi có trọng lượng lớn hơn.

Năng suất (sinh khối): Kết quả cho thấy năng suất tôm nuôi cao nhất ở các nghiệm thức bổ sung bột gạo theo TA, trong đó cao nhất là nghiệm thức TA-48 (1.018 ± 89,4 g/m3) và thấp nhất ở nghiệm thức TAN-12 (719±126 g/m3), có thể nhận định rằng việc bổ sung bột gạo theo TA làm tăng năng suất so phương thức bổ sung theo TAN khoảng 20% về năng suất. Kết quả phân tích thống kê cho thấy phương thức bổ sung theo TA cao hơn so với phương thức bổ sung theo TAN, nghiệm thức TA-48 cho năng suất cao nhất và khác biệt với tất cả các nghiệm thức bổ sung theo TAN (p<0,05). Qua thí nghiệm cho thấy ở 2 tuần đầu thí nghiệm hàm lượng TAN đạt đỉnh cao nhất, nên lượng bột gạo bổ sung theo TAN cao gấp 2 lần so với các nghiệm thức bổ sung bột gạo theo TA bởi giai đoạn đầu tôm còn nhỏ nên lượng bột gạo bổ sung ít, chính điều này làm cho độ đục và tổng vật chất rắn lơ lửng tăng cao kéo theo lượng biofloc tăng lên và đồng thời làm giảm pH kích thích vi khuẩn dạng sợi và vi khuẩn nấm men phát triển đẩy nhanh quá trình amôn hóa làm tăng hàm lượng TAN, kết quả làm cho tỷ lệ sống tôm nuôi giảm nên đồng thời làm ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi.

Kết luận

– Qua phân tích số liệu trong suốt quá trình nuôi cho thấy không có sự tương tác giữa thời gian thủy phân và phương thức bổ sung bột gạo.

– Phương thức bổ sung bột gạo theo TA và TAN có ảnh hưởng rõ rệt đến sự biến động các yếu tố môi trường, khi bổ sung bột gạo theo TAN làm cho các yếu tố TSS, TAN, NO2-, kích cỡ, lượng FVI và tổng vi khuẩn tăng cao và làm độ kiềm trong nước giảm so với phương thức bổ sung theo TA.

– Thời gian thủy phân bột gạo có ảnh hưởng không rõ rệt đến các yếu tố môi trường, thời gian thủy phân càng dài môi trường càng được cải thiện và kích thước hạt biofloc càng lớn nhưng lượng biofloc càng nhỏ.

– Tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống hay năng suất ở nghiệm thức bổ sung bột gạo theo TA cao hơn so với các giữa nghiệm thức bổ sung bột gạo theo TAN. Năng suất chung ở các nghiệm thức bổ sung bột gạo theo TA cao hơn so với nghiệm thức bổ sung bột gạo theo TAN khoảng 20%.

– Nuôi tôm thẻ chân trắng theo quy trình biofloc với nguồn carbohydrate là bột gạo được thủy phân trong thời gian 48 giờ và bổ sung theo thức ăn cho hiệu quả và thích hợp nhất.

The effects of hydrolyzed and supplemented rice flour method to cultural yield of white leg shrimp

The two factorial experiment was designed randomly with the time hydrolyzed rice flour (12, 24, 48 hours) and supplementing rice flour to feed and TAN with C:N=15:1. The aim of the study is to find out the way to supplement effect rice flour to yield of white leg shrimp culture. The result showed that when plugin rice flour according to TAN for element TSS, TAN, NO2-, the size biofloc, lượng biofloc (FVI). Total bacteria increased and decreased alkalinity in water comparion supplement with feed. The time hydrolyzed rice flour was not effect to the environment; the longer time hydrolyzed leads to the environment improved and bigger sizes of biofloc, but smaller volume of biofloc. Speed increase grow, survival rate or productivity in the experiment plugin carbohydrate with feed increaser comparion with experimentals plugin rice flour according to TAN. White leg shrimp culture following process biofloc by using the sources of rice flour with hydrolyzed in 48 hours and plugin according to feed has the best result.

trieutuan.blog (tổng hợp)
Source: Tạ Văn Phương, Nguyễn Văn Bá và Nguyễn Văn Hòa. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Số chuyên đề: Thủy sản (2014)(2): 54-62.

Trieu Tuan
Trieu Tuan
Triệu Tuấn là một ông bố 2 con, tốt nghiệp Tiến sỹ chuyên ngành Công nghệ sinh học tại Nhật Bản. Hiện nay đang công tác tại Trung tâm Xúc tiến đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp tỉnh Cà Mau (iPEC).

Share this article

Recent posts

Popular categories

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

Recent comments